Đảng cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất của đất nước. Mỗi chúng ta đều có thể khẳng định rằng sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam chính là một bước ngoặt có ý nghĩa và vai trò to lớn trong lịch sử cách mạng của toàn dân tộc Việt Nam. Đảng ra đời có tính chất quyết định đến sự phát triển của dân tộc cũng như thắng lợi của cuộc cách mạng toàn dân. Bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về ý nghĩa lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam 3/2/1930?
1. Bối cảnh ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam:
Vào năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga thì chủ nghĩa Mác – Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, từ đó thì cũng đã mở ra một thời đại mới trên toàn thế giới. Đó là thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga diễn ra cũng đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng đối với các dân tộc hiện đang bị áp bức.
Cùng với đó là sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3 năm 1919 đã góp phần quan trọng giúp thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) đã trở thành ngọn đuốc lớn soi đường cho cách mạng Việt Nam sau này. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có ý nghĩa to lớn và vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và góp phần thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về chính trị thì thực dân Pháp đã áp đặt chính sách cai trị thực dân, thực dân Pháp cũng đã tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn và tiến hành chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ cũng như thực hiện ở mỗi kỳ đó là một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp cũng đã cấu kết với giai cấp địa chủ trên đất nước ta để nhằm mục đích dễ dàng bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Khi đứng trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta nhằm mục đích để chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng lại đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương là một phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (năm 1896).
Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này cũng đã không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu đó là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám tuy đã kéo dài mấy chục năm nhưng rồi cũng đã thất bại vào năm 1913. Tiếp theo đó là các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các sĩ phu yêu nước cụ thể như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo thì cũng đã rơi vào bế tắc. Sau đó thì cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại.
Ta thấy được rằng: liên tiếp các phong trào yêu nước diễn ra từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cũng chính là sự tiếp nối của truyền thống yêu nước, bất khuất của toàn dân tộc ta và điều này đã được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng bởi vì nguyên nhân là do nhân dân ta đã thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó tuy diễn ra mạnh mẽ những đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam cũng vì thế mà chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
2. Sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam:
Vào năm 1929 phong trào dân tộc dân chủ của các quốc gia trên thế giới cũng đang ngày càng phát triển, kết thành một làn sóng mạnh mẽ. Đặc biệt đó chính là sự phát triển mạnh mẽ của phòng trào cách mạng. Việc này thì cũng đã vượt quá khả năng lãnh đạo của các tổ chức cách mạng. Đặc biệt đó chính là sự xuất hiện các tổ chức cộng sản bao gồm:
– Thứ nhất: Đông Dương Cộng sản Đảng:
Vào tháng 3 năm 1929, một số hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Bắc Kỳ đã tiến hành họp tại số nhà 5Đ, phố Hàm Long (Hà Nội), và cũng từ đó mà lập ra Chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Chi bộ này có 7 Đảng viên và đã mở cuộc vận động lập Đảng cộng sản. Từ ngày 01 đến 09/05/1929, tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được tổ chức tại Hương Cảng (Trung Quốc), đoàn đại biểu Bắc Kỳ cũng đã đặt vấn đề thành lập Đảng Cộng sản tuy nhiên điều này lại không được chấp nhận nên bỏ về nước.
Vào 17/6/1929 đại biểu cộng sản miền Bắc cũng đã tiến hành họp tại nhà số 312, phố Khâm Thiên (Hà Nội) và quyết định thành lập Đông Dương cộng sản đảng, thông qua Tuyên ngôn, điều lệ Đảng, ra báo Búa Liềm, và cũng đã cử ra Ban chấp hành Trung ương Đảng.
– Thứ hai: An Nam Cộng sản Đảng:
Vào tháng 8/1929: Những chủ thể là các cán bộ tiên tiến trong Tổng bộ và kỳ bộ Việt Nam cách mạng thanh niên ở Nam kỳ đã thành lập An Nam cộng sản đảng, ra tờ báo Đỏ là cơ quan ngôn luận.
– Thứ ba: Đông Dương cộng sản liên đoàn:
Vào tháng 9/1929: Một số đảng viên tiên tiến của Tân Việt lập ra Đông Dương cộng sản liên đoàn.
Tuy nhiên với sự ra đời của ba tổ chức cộng sản thì điều này trên thực tế cũng đã không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, dẫn đến việc không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử của đất nước trong giai đoạn này đó là cần phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt đối với tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt Nam.
Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã được họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản.Tham dự Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam bao gồm các đồng chí sau: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng), Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu (đại biểu của An Nam Cộng sản đảng).
Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên gọi chung là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản cũng đã thông qua các văn kiện bao gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến các chủ thể là những công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Ý nghĩa lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam 3/2/1930:
Hội nghị đã hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam giai đoạn đó thành một Đảng Cộng sản duy nhất và đó chính là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đi theo một đường lối chính trị đúng đắn, việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, tất cả đều hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng chính là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân tại Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam giai đoạn đó. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cũng được đánh giá là sự kiện lịch sử có ý nghĩa cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng to lớn và quan trọng trong lịch sử của cuộc cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin cùng với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
Ta thấy được rằng, sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị để xác định đúng đắn con đường cách mạng đó là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở quan trọng để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã có thể nắm được ngọn cờ lãnh đạo đối với phong trào cách mạng Việt Nam. Việc này cũng góp phần quan trọng giúp giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, từ đó mà đã mở ra con đường và phương hướng cụ thể để phát triển mới cho đất nước Việt Nam.
Chính đường lối được Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành này là cơ sở để có thể đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc ta đều cùng chung tư tưởng và hành động để nhằm có thể tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành được những thắng lợi to lớn ở giai đoạn sau này. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là điều kiện cơ bản quyết định đối với phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt nhiều năm qua.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cùng với việc Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, việc này cũng đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại từ đó giúp dân tộc ta làm nên những thắng lợi vẻ vang. Bên cạnh đó thì cách mạng Việt Nam cũng đã góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân trên phạm vi toàn thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.